I have heard that:
On one occasion the Blessed One was staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery.
There he addressed the monks:
-"Monks!"



Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm) tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo :
-"Này các Tỷ-kheo".

 

"Yes, lord,"
The monks responded to him.


– "Thưa vâng, Bạch Thế Tôn".
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

 

"Monks, I will teach you the Dhamma admirable in the beginning, admirable in the middle, admirable in the end; I will expound the holy life both in its particulars & in its essence, entirely complete, surpassingly pure — in other words, the six sextets. Listen & pay close attention. I will speak."

Thế Tôn nói như sau :
– Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ta sẽ nói lên Phạm hạnh hoàn toàn viên măn, thanh tịnh, tức là sáu sáu. Hăy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

 

"As you say, lord,"
The monks responded.


– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

 

The Blessed One said:
-The six internal media should be known.
-The six external media should be known.
-The six classes of consciousness should be known.
-The six classes of contact should be known.
-The six classes of feeling should be known.
-The six classes of craving should be known.



Thế Tôn nói như sau :
–Sáu nội xứ cần phải được biết.
-Sáu ngoại xứ cần phải được biết.
-Sáu thức thân cần phải được biết.
-Sáu xúc thân cần phải được biết.
-Sáu thọ thân cần phải được biết.
-Sáu ái thân cần phải được biết.

 

"'The six internal media should be known.' Thus was it said. In reference to what was it said? The eye-medium, the ear-medium, the nose-medium, the tongue-medium, the body-medium, the intellect-medium. 'The six internal media should be known.' Thus was it said. And in reference to this was it said. This is the first sextet.



Khi được nói đến "Sáu nội xứ cần phải được biết", do duyên ǵ được nói đến như vậy ? Nhăn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ư xứ. Khi được nói đến "Sáu nội xứ cần phải được biết ", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ nhất.

 

"'The six external media should be known.' Thus was it said. In reference to what was it said? The form-medium, the sound-medium, the aroma-medium, the flavor-medium, the tactile sensation-medium, the idea-medium. 'The six external media should be known.' Thus was it said. And in reference to this was it said. This is the second sextet.



Khi được nói đến "Sáu ngoại xứ cần phải được biết", do duyên ǵ được nói đến như vậy ? Sắc xứ, thanh xứ, hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ. Khi được nói đến "Sáu ngoại xứ cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ hai.

 

"'The six classes of consciousness should be known.' Thus was it said. In reference to what was it said?
-Dependent on the eye & forms there arises consciousness at the eye.
-Dependent on the ear & sounds there arises consciousness at the ear.
-Dependent on the nose & aromas there arises consciousness at the nose.
-Dependent on the tongue & flavors there arises consciousness at the tongue.
-Dependent on the body & tactile sensations there arises consciousness at the body.
-Dependent on the intellect & ideas there arises consciousness at the intellect.
'The six classes of consciousness should be known.' Thus was it said. And in reference to this was it said.
This is the third sextet.



Khi được nói đến "Sáu thức thân cần phải được biết", do duyên ǵ được nói đến như vậy ?
-Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhăn thức.
-Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức.
-Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức.
-Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức.
-Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức.
-Do duyên ư và do duyên các pháp, khởi lên ư thức.
Khi được nói đến "Sáu thức thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy.
Đây là sáu sáu thứ ba.

 

"'The six classes of contact should be known.' Thus was it said. In reference to what was it said?
-Dependent on the eye & forms there arises consciousness at the eye. The meeting of the three is contact.
-Dependent on the ear & sounds there arises consciousness at the ear. The meeting of the three is contact.
-Dependent on the nose & aromas there arises consciousness at the nose. The meeting of the three is contact.
-Dependent on the tongue & flavors there arises consciousness at the tongue. The meeting of the three is contact.
-Dependent on the body & tactile sensations there arises consciousness at the body. The meeting of the three is contact.
-Dependent on the intellect & ideas there arises consciousness at the intellect. The meeting of the three is contact.
'The six classes of contact should be known.' Thus was it said. And in reference to this was it said.
This is the fourth sextet.



Khi được nói đến "Sáu xúc thân cần phải được biết", do duyên ǵ được nói đến như vậy ?
-Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.
-Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.
-Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.

-Do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.

-Do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.

-Do duyên ư và do duyên các pháp khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.

Khi được nói đến "Sáu xúc thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy.
Đây là sáu sáu thứ tư.

 

"'The six classes of feeling should be known.' Thus was it said. In reference to what was it said?
-Dependent on the eye & forms there arises consciousness at the eye. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition there is feeling.
-Dependent on the ear & sounds there arises consciousness at the ear. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition there is feeling.
-Dependent on the nose & aromas there arises consciousness at the nose. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition there is feeling.
-Dependent on the tongue & flavors there arises consciousness at the tongue. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition there is feeling.
-Dependent on the body & tactile sensations there arises consciousness at the body. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition there is feeling.
-Dependent on the intellect & ideas there arises consciousness at the intellect. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition there is feeling.
'The six classes of feeling should be known.' Thus was it said. And in reference to this was it said.
This is the fifth sextet.



Khi được nói đến "Sáu thọ thân cần phải được biết", do duyên ǵ được nói đến như vậy ?
-Do duyên mắt và do duyên các sắc khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ.
-Do duyên tai và do duyên các tiếng khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc.Do duyên xúc là thọ.

-Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ.

-Do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức.Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ.

-Do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức.Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ.

-Do duyên ư và do duyên các pháp, khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ.

Khi được nói đến "Sáu thọ thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy. Đây là sáu sáu thứ năm.

 

"'The six classes of craving should be known.' Thus was it said. In reference to what was it said?
-Dependent on the eye & forms there arises consciousness at the eye. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition there is feeling. With feeling as a requisite condition there is craving.
-Dependent on the ear & sounds there arises consciousness at the ear. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition there is feeling. With feeling as a requisite condition there is craving.
-Dependent on the nose & aromas there arises consciousness at the nose. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition there is feeling. With feeling as a requisite condition there is craving.
-Dependent on the tongue & flavors there arises consciousness at the tongue. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition there is feeling. With feeling as a requisite condition there is craving.
-Dependent on the body & tactile sensations there arises consciousness at the body. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition there is feeling. With feeling as a requisite condition there is craving.
-Dependent on the intellect & ideas there arises consciousness at the intellect. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition there is feeling. With feeling as a requisite condition there is craving.
'The six classes of craving should be known.' Thus was it said. And in reference to this was it said.
This is the sixth sextet.



Khi được nói đến "Sáu ái thân cần phải được biết", do duyên ǵ được nói đến như vậy ?
-Do duyên mắt và duyên các sắc khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái.

-Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái.

-Do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái.

-Do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái.

-Do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái.

-Do duyên ư và do duyên các pháp khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái.

Khi được nói đến "Sáu ái thân cần phải được biết", chính do duyên này được nói đến như vậy.
Đây là sáu sáu thứ sáu.

 

-If anyone were to say, 'The eye is the self,' that wouldn't be tenable. The arising & falling away of the eye are discerned. And when its arising & falling away are discerned, it would follow that 'My self arises & falls away.' That's why it wouldn't be tenable if anyone were to say, 'The eye is the self.' So the eye is not-self.
-If anyone were to say, 'Forms are the self,' that wouldn't be tenable. The arising & falling away of the eye are discerned. And when its arising & falling away are discerned, it would follow that 'My self arises & falls away.' That's why it wouldn't be tenable if anyone were to say,'Forms are the self'. Thus the eye is not-self and forms are not-self.
-If anyone were to say, 'Consciousness at the eye is the self,' that wouldn't be tenable. The arising & falling away of the eye are discerned. And when its arising & falling away are discerned, it would follow that 'My self arises & falls away.' That's why it wouldn't be tenable if anyone were to say, 'Consciousness at the eye is the self,'.Thus the eye is not-self, forms are not-self, consciousness at the eye is not-self.
-If anyone were to say, 'Contact at the eye is the self,' that wouldn't be tenable. The arising & falling away of the eye are discerned. And when its arising & falling away are discerned, it would follow that 'My self arises & falls away.' That's why it wouldn't be tenable if anyone were to say,'Contact at the eye is the self,'. Thus the eye is not-self, forms are not-self, consciousness at the eye is not-self, contact at the eye is not-self.
-If anyone were to say, 'Feeling is the self,' that wouldn't be tenable. The arising & falling away of the eye are discerned. And when its arising & falling away are discerned, it would follow that 'My self arises & falls away.' That's why it wouldn't be tenable if anyone were to say,'Feeling is the self,' . Thus the eye is not-self, forms are not-self, consciousness at the eye is not-self, contact at the eye is not-self, feeling is not self.
-If anyone were to say, 'Craving is the self,' that wouldn't be tenable. The arising & falling away of craving are discerned. And when its arising & falling away are discerned, it would follow that 'My self arises & falls away.' That's why it wouldn't be tenable if anyone were to say, 'Craving is the self.' Thus the eye is not-self, forms are not-self, consciousness at the eye is not-self, contact at the eye is not-self, feeling is not self, craving is not-self.



-Nếu có ai nói rằng : "Mắt là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của mắt đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Mắt là tự ngă", như vậy không hợp lư. Như vậy, con mắt là vô ngă.
-Nếu ai nói rằng : "Các sắc là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của các sắc đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt của các sắc đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Các sắc là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy, con mắt là vô ngă, các sắc là vô ngă.
-Nếu ai nói rằng : "Nhăn thức là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của nhăn thức đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt của nhăn thức đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Nhăn thức là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy con mắt là vô ngă, các sắc là vô ngă, nhăn thức là vô ngă.
-Nếu có ai nói rằng : "Nhăn xúc là tự ngă, như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của nhăn xúc đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Nhăn xúc là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Như vậy con mắt là vô ngă, các sắc là vô ngă, nhăn thức là vô ngă, nhăn xúc là vô ngă.
-Nếu có ai nói rằng : "Thọ là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của thọ đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt của thọ đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Thọ là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy, con mắt là vô ngă, các sắc là vô ngă, nhăn thức là vô ngă, nhăn xúc là vô ngă, thọ là vô ngă.
-Nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ái đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy con mắt là vô ngă, các sắc là vô ngă, nhăn thức là vô ngă, nhăn xúc là vô ngă, thọ là vô ngă, ái là vô ngă.

 

"If anyone were to say, 'The ear is the self,' that wouldn't be tenable...

Nếu có ai nói rằng : "Tai là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của tai đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu ai nói rằng : "Tai là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy Tai là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Các tiếng là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của các tiếng đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được nghe, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Các tiếng là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy, tai là vô ngă, các tiếng là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : " Nhĩ thức là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của nhĩ thức đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt của nhĩ thức đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Nhăn thức là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy tai là vô ngă, các tiếng là vô ngă, nhĩ thức là vô ngă. Nếu có nói rằng : "Nhĩ xúc là tự ngă ", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của nhĩ xúc đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "nhĩ xúc là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy tai là vô ngă, các tiếng là vô ngă, nhĩ thức là vô ngă, nhĩ xúc là vô ngă. Nếu có ai nói : "Thọ là tự ngă", như vậy không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của thọ đă dược thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Thọ là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy tai là vô ngă, các tiếng là vô ngă, nhĩ thức là vô ngă, nhĩ xúc là vô ngă, thọ là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. V́ rằng sự sanh.. Do vậy nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy tai là vô ngă, các tiếng là vô ngă, nhĩ thức là vô ngă, nhĩ xúc là vô ngă, thọ là vô ngă, ái là vô ngă.

 

"If anyone were to say, 'The nose is the self,' that wouldn't be tenable...

nếu có ai nói rằng : "Mũi là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của mũi đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu ai nói rằng : "Mũi là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy mũi là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Các hương là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của các hương đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Các hương là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy, mũi là vô ngă, các hương là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Tỷ thức là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của tỷ thức đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : " Tỷ thức là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy mũi là vô ngă, các hương là vô ngă, tỷ thức là vô ngă. Nếu có nói rằng : "Tỷ xúc là tự ngă ", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ư xúc đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Tỷ xúc là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy mũi là vô ngă, các hương là vô ngă, tỷ thức là vô ngă, tỷ xúc là vô ngă. Nếu có ai nói : "Thọ là tự ngă", như vậy không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của thọ đă dược thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Thọ là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy mũi là vô ngă, các hương là vô ngă, tỷ thức là vô ngă, tỷ xúc là vô ngă, thọ là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy mũi là vô ngă, các hương là vô ngă, tỷ thức là vô ngă, tỷ xúc là vô ngă, thọ là vô ngă, ái là vô ngă.

 

"If anyone were to say, 'The tongue is the self,' that wouldn't be tenable...

Nếu có ai nói rằng : "Lưỡi là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của lưỡi đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu ai nói rằng : "Lưỡilà tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy lưỡi là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Các vị là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của các vị đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Các vị là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy, lưỡi là vô ngă, các vị là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : " Thiệt thức là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của thiệt thức đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : " Thiệt thức là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy lưỡi là vô ngă, các vị là vô ngă, thiệt thức là vô ngă. Nếu có nói rằng : "Thiệt xúc là tự ngă ", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ư xúc đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Thiệt xúc là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy lưỡi là vô ngă, các vị là vô ngă, thiệt thức là vô ngă, thiệt xúc là vô ngă. Nếu có ai nói : "Thọ là tự ngă", như vậy không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của thọ đă dược thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Thọ là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy lưỡi là vô ngă, các vị là vô ngă, thiệt thức là vô ngă, thiệt xúc là vô ngă, thọ là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy lưỡi là vô ngă, các vị là vô ngă, thiệt thức là vô ngă, thiệt xúc là vô ngă, thọ là vô ngă, ái là vô ngă.

 

"If anyone were to say, 'The body is the self,' that wouldn't be tenable...

Nếu có ai nói rằng : "Thân là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của thân đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu ai nói rằng : "Thân là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy thân là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Các xúc là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của các xúc đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Các xúc là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy, thân là vô ngă, các xúc là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Thân thức là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ư thức đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Thân thức là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy thân là vô ngă, các xúc là vô ngă, ư thức là vô ngă. Nếu có nói rằng : "Thân xúc là tự ngă ", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của thân xúc đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Thân xúc là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy thân là vô ngă, các xúc là vô ngă, thân thức là vô ngă, thân xúc là vô ngă. Nếu có ai nói : "Thọ là tự ngă", như vậy không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của thọ đă dược thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Thọ là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy thânlà vô ngă, các xúc là vô ngă, thân thức là vô ngă, thân xúc là vô ngă, thọ là vô ngă. Nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. V́ rằng Sự sanh và sự diệt của thọ đă dược thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi".Do vậy nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy thân là vô ngă, các xúc là vô ngă, thân thức là vô ngă, thân xúc là vô ngă, thọ là vô ngă, ái là vô ngă.

 

-If anyone were to say, 'The intellect is the self,' that wouldn't be tenable. The arising & falling away of the intellect are discerned. And when its arising & falling away are discerned, it would follow that 'My self arises & falls away.' That's why it wouldn't be tenable if anyone were to say, 'The intellect is the self.' So the intellect is not-self.
-If anyone were to say, 'Ideas are the self,' that wouldn't be tenable.The arising & falling away of the intellect are discerned. And when its arising & falling away are discerned, it would follow that 'My self arises & falls away.' That's why it wouldn't be tenable if anyone were to say,'Ideas are the self,'. Thus the intellect is not-self and ideas are not-self.
-If anyone were to say, 'Consciousness at the intellect is the self,' that wouldn't be tenable. The arising & falling away of the intellect are discerned. And when its arising & falling away are discerned, it would follow that 'My self arises & falls away.' That's why it wouldn't be tenable if anyone were to say, 'Consciousness at the intellect is the self,'. Thus the intellect is not-self, ideas are not-self, consciousness at the intellect is not-self.
-If anyone were to say, 'Contact at the intellect is the self,' that wouldn't be tenable. The arising & falling away of the intellect are discerned. And when its arising & falling away are discerned, it would follow that 'My self arises & falls away.' That's why it wouldn't be tenable if anyone were to say, 'Contact at the intellect is the self,'. Thus the intellect is not-self, ideas are not-self, consciousness at the intellect is not-self, contact at the intellect is not-self.
-If anyone were to say, 'Feeling is the self,' that wouldn't be tenable. The arising & falling away of the intellect are discerned. And when its arising & falling away are discerned, it would follow that 'My self arises & falls away.' That's why it wouldn't be tenable if anyone were to say, 'Feeling is the self,'. Thus the intellect is not-self, ideas are not-self, consciousness at the intellect is not-self, contact at the intellect is not-self, feeling is not self.
-If anyone were to say, 'Craving is the self,' that wouldn't be tenable. The arising & falling away of craving are discerned. And when its arising & falling away are discerned, it would follow that 'My self arises & falls away.' That's why it wouldn't be tenable if anyone were to say, 'Craving is the self.' Thus the intellect is not-self, ideas are not-self, consciousness at the intellect is not-self, contact at the intellect is not-self, feeling is not self, craving is not-self.



-Nếu có ai nói rằng : "ư là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ư đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy nếu ai nói rằng : "Ư là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô ngă.
-Nếu có ai nói rằng : "Các pháp là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của các pháp đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Các pháp là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy, ư là vô ngă, các pháp là vô ngă.
-Nếu có ai nói rằng : "Ư thức là tự ngă", như vậy, là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ư thức đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu ai nói rằng : "Ư thức là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô ngă, các pháp là vô ngă, ư thức là vô ngă.
-Nếu có nói rằng : "Ư xúc là tự ngă ", như vậy là không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của ư xúc đă được thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên phải đưa đến kết luận : "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Ư xúc là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô ngă, các pháp là vô ngă, ư thức là vô ngă, ư xúc là vô ngă.

-Nếu có ai nói : "Thọ là tự ngă", như vậy không hợp lư. Sự sanh và sự diệt của thọ đă dược thấy. V́ rằng sự sanh và sự diệt đă được thấy, nên đưa đến kết luận: "Tự ngă sanh và diệt ở nơi tôi". Do vậy, nếu có ai nói rằng : "Thọ là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô ngă, các pháp là vô ngă, ư thức là vô ngă, ư xúc là vô ngă, thọ là vô ngă.

-Nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. V́ rằng sự sanh.. Do vậy nếu có ai nói rằng : "Ái là tự ngă", như vậy là không hợp lư. Như vậy ư là vô ngă, các pháp là vô ngă, ư thức là vô ngă, ư xúc là vô ngă, thọ là vô ngă, ái là vô ngă.

 

"This, monks, is the path of practice leading to self-identification. One assumes about the eye that 'This is me, this is my self, this is what I am.' One assumes about forms that 'This is me, this is my self, this is what I am. One assumes about consciousness at the eye that 'This is me, this is my self, this is what I am. One assumes about contact at the eye that 'This is me, this is my self, this is what I am. One assumes about feeling that 'This is me, this is my self, this is what I am. One assumes about craving that 'This is me, this is my self, this is what I am.'



Này các Tỷ-kheo, nhưng đây là con đường đưa đến sự tập khởi của thân kiến. Ai quán mắt là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi" Ai quán các sắc là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi". Ai quán nhăn thức : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán nhăn xúc: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán ái: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi".

 

"One assumes about the ear that 'This is me, this is my self, this is what I am.' One assumes about sound, that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about consciousness at the ear that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about contact at the ear that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about feeling that 'This is me, this is my self, this is what I am.' . One assumes about craving that 'This is me, this is my self, this is what I am.'



Ai quán tai là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi" Ai quán các tiếng là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi". Ai quán nhĩ thức : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán nhĩ xúc: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán ái: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi".

 

"One assumes about the nose that 'This is me, this is my self, this is what I am.' One assumes about aroma that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about consciousness at the nose that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about contact at the nose that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about feeling that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about craving that 'This is me, this is my self, this is what I am.'



Ai quán mũi là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi" Ai quán các hương là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi". Ai quán tỷ thức : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán tỷ xúc: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán ái: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi".

 

"One assumes about the tongue that 'This is me, this is my self, this is what I am.' One assumes about flavor that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about consciousness at the tongue that 'This is me, this is my self, this is what I am.' . One assumes about contact at the tongue that 'This is me, this is my self, this is what I am.' . One assumes about feeling that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about craving that 'This is me, this is my self, this is what I am.'



Ai quán lưỡi là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi" Ai quán các vị là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi". Ai quán thiệt thức : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán thiệt xúc: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán ái: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi".

 

"One assumes about the body that 'This is me, this is my self, this is what I am.' One assumes about tactile sensation that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about consciousness at the body that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about contact at the body that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about feeling that 'This is me, this is my self, this is what I am.' . One assumes about craving that 'This is me, this is my self, this is what I am.'



Ai quán thân là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi" Ai quán các xúc là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi". Ai quán thân thức : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán thân xúc: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán ái: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi".

 

"One assumes about the intellect that 'This is me, this is my self, this is what I am.' One assumes about ideas that 'This is me, this is my self, this is what I am.' . One assumes about consciousness at the intellect that 'This is me, this is my self, this is what I am'. One assumes about contact at the intellect that 'This is me, this is my self, this is what I am'. One assumes about feeling that 'This is me, this is my self, this is what I am.' . One assumes about craving that 'This is me, this is my self, this is what I am.'



Ai quán ư là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi" Ai quán các pháp là : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngă của tôi". Ai quán ư thức : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán ư xúc: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi". Ai quán ái: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, là tự ngă của tôi".

 

"Now, this is the path of practice leading to the cessation of self-identification. One assumes about the eye that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' One assumes about forms that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about consciousness at the eye... One assumes about contact at the eye... One assumes about feeling that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about craving that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.'


Nhưng này các Tỷ-kheo, đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt của thân kiến. Ai quán mắt : ""Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngă của tôi". Ai quán sắc : "Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, không phải là tự ngă của tôi". Ai quán nhăn thức : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải là tự ngă của tôi". Ai quán nhăn xúc : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán ái : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi".

 

"One assumes about the ear that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' One assumes about sound that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about consciousness at the eye that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about contact at the ear that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.'. One assumes about feeling that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.'. One assumes about craving that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.'

Ai quán tai : ""Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngă của tôi". Ai quán các tiếng : "Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, không phải là tự ngă của tôi". Ai quán nhĩ thức : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải là tự ngă của tôi". Ai quán nhĩ xúc : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán ái : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi".

 

"One assumes about the nose that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' One assumes about aroma that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about consciousness at the eye that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.'. One assumes about contact at the nose that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about feeling that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.'. One assumes about craving that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.'

Ai quán mũi : ""Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngă của tôi". Ai quán các hương : "Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, không phải là tự ngă của tôi". Ai quán tỷ thức : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải là tự ngă của tôi". Ai quán tỷ xúc : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán ái : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi".

 

"One assumes about the tongue that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' One assumes about flavor that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about consciousness at the eye that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about contact at the eye that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about feeling... One assumes about craving that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.'

Ai quán lưỡi : ""Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngă của tôi". Ai quán các vị : "Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, không phải là tự ngă của tôi". Ai quán thiệt thức : "Cái này không phải của tôi,cái này không phải là tôi, không phải là tự ngă của tôi". Ai quán thiệt xúc : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán ái : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi".

 

"One assumes about the body that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' One assumes about tactile sensation that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.'. One assumes about consciousness at the eye that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about contact at the eye that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about feeling that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about craving that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.'

Ai quán thân : ""Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngă của tôi". Ai quán các xúc : "Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, không phải là tự ngă của tôi". Ai quán thân thức : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải là tự ngă của tôi". Ai quán thân xúc : "Cái này không phải của tôi.. không phải tự ngă của tôi". Ai quán thọ : "Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán ái : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi".

 

"One assumes about the intellect that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' One assumes about ideas that 'This is me, this is my self, this is what I am.'. One assumes about consciousness at the intellect that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about contact at the intellect that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about feeling that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.' . One assumes about craving that 'This is not me, this is not my self, this is not what I am.'

Ai quán ư: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán các pháp: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán ư thức: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán ư xúc: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán thọ: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi". Ai quán ái : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, không phải tự ngă của tôi".

 

"Dependent on the eye & forms there arises consciousness at the eye. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition, there arises what is felt either as pleasure, pain, or neither pleasure nor pain. If, when touched by a feeling of pleasure, one relishes it, welcomes it, or remains fastened to it, then one's passion-obsession gets obsessed. If, when touched by a feeling of pain, one sorrows, grieves, & laments, beats one's breast, becomes distraught, then one's resistance-obsession gets obsessed. If, when touched by a feeling of neither pleasure nor pain, one does not discern, as it actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, or escape from that feeling, then one's ignorance-obsession gets obsessed. That a person — without abandoning passion-obsession with regard to a feeling of pleasure, without abolishing resistance-obsession with regard to a feeling of pain, without uprooting ignorance-obsession with regard to a feeling of neither pleasure nor pain, without abandoning ignorance and giving rise to clear knowing — would put an end to suffering & stress in the here & now: such a thing isn't possible.



Này các Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước. Tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ, mà sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy, vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho ḿnh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.

 

"Dependent on the ear & sounds there arises consciousness at the ear. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition, there arises what is felt either as pleasure, pain, or neither pleasure nor pain. If, when touched by a feeling of pleasure, one relishes it, welcomes it, or remains fastened to it, then one's passion-obsession gets obsessed. If, when touched by a feeling of pain, one sorrows, grieves, & laments, beats one's breast, becomes distraught, then one's resistance-obsession gets obsessed. If, when touched by a feeling of neither pleasure nor pain, one does not discern, as it actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, or escape from that feeling, then one's ignorance-obsession gets obsessed. That a person — without abandoning passion-obsession with regard to a feeling of pleasure, without abolishing resistance-obsession with regard to a feeling of pain, without uprooting ignorance-obsession with regard to a feeling of neither pleasure nor pain, without abandoning ignorance and giving rise to clear knowing — would put an end to suffering & stress in the here & now: such a thing isn't possible.



Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước, tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ mà sầu muốn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.

 

"Dependent on the nose & aromas there arises consciousness at the nose. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition, there arises what is felt either as pleasure, pain, or neither pleasure nor pain. If, when touched by a feeling of pleasure, one relishes it, welcomes it, or remains fastened to it, then one's passion-obsession gets obsessed. If, when touched by a feeling of pain, one sorrows, grieves, & laments, beats one's breast, becomes distraught, then one's resistance-obsession gets obsessed. If, when touched by a feeling of neither pleasure nor pain, one does not discern, as it actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, or escape from that feeling, then one's ignorance-obsession gets obsessed. That a person — without abandoning passion-obsession with regard to a feeling of pleasure, without abolishing resistance-obsession with regard to a feeling of pain, without uprooting ignorance-obsession with regard to a feeling of neither pleasure nor pain, without abandoning ignorance and giving rise to clear knowing — would put an end to suffering & stress in the here & now: such a thing isn't possible.



Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước, tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ mà sầu muốn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.

 

"Dependent on the tongue & flavors there arises consciousness at the tongue. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition, there arises what is felt either as pleasure, pain, or neither pleasure nor pain. If, when touched by a feeling of pleasure, one relishes it, welcomes it, or remains fastened to it, then one's passion-obsession gets obsessed. If, when touched by a feeling of pain, one sorrows, grieves, & laments, beats one's breast, becomes distraught, then one's resistance-obsession gets obsessed. If, when touched by a feeling of neither pleasure nor pain, one does not discern, as it actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, or escape from that feeling, then one's ignorance-obsession gets obsessed. That a person — without abandoning passion-obsession with regard to a feeling of pleasure, without abolishing resistance-obsession with regard to a feeling of pain, without uprooting ignorance-obsession with regard to a feeling of neither pleasure nor pain, without abandoning ignorance and giving rise to clear knowing — would put an end to suffering & stress in the here & now: such a thing isn't possible.



Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước, tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ mà sầu muốn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.

 

"Dependent on the body & tactile sensations there arises consciousness at the body. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition, there arises what is felt either as pleasure, pain, or neither pleasure nor pain. If, when touched by a feeling of pleasure, one relishes it, welcomes it, or remains fastened to it, then one's passion-obsession gets obsessed. If, when touched by a feeling of pain, one sorrows, grieves, & laments, beats one's breast, becomes distraught, then one's resistance-obsession gets obsessed. If, when touched by a feeling of neither pleasure nor pain, one does not discern, as it actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, or escape from that feeling, then one's ignorance-obsession gets obsessed. That a person — without abandoning passion-obsession with regard to a feeling of pleasure, without abolishing resistance-obsession with regard to a feeling of pain, without uprooting ignorance-obsession with regard to a feeling of neither pleasure nor pain, without abandoning ignorance and giving rise to clear knowing — would put an end to suffering & stress in the here & now: such a thing isn't possible.



Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước, tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ mà sầu muốn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.

 

"Dependent on the intellect & ideas there arises consciousness at the intellect. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition, there arises what is felt either as pleasure, pain, or neither pleasure nor pain. If, when touched by a feeling of pleasure, one relishes it, welcomes it, or remains fastened to it, then one's passion-obsession gets obsessed. If, when touched by a feeling of pain, one sorrows, grieves, & laments, beats one's breast, becomes distraught, then one's resistance-obsession gets obsessed. If, when touched by a feeling of neither pleasure nor pain, one does not discern, as it actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, or escape from that feeling, then one's ignorance-obsession gets obsessed. That a person — without abandoning passion-obsession with regard to a feeling of pleasure, without abolishing resistance-obsession with regard to a feeling of pain, without uprooting ignorance-obsession with regard to a feeling of neither pleasure nor pain, without abandoning ignorance and giving rise to clear knowing — would put an end to suffering & stress in the here & now: such a thing isn't possible.



Này các Tỷ-kheo, do duyên ư và do duyên các pháp khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước, tham tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc khổ thọ mà sầu muốn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy tùy tăng. Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.

 

"Dependent on the eye & forms there arises consciousness at the eye. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition, there arises what is felt either as pleasure, pain, or neither pleasure nor pain. If, when touched by a feeling of pleasure, one does not relish it, welcome it, or remain fastened to it, then one's passion-obsession doesn't get obsessed. If, when touched by a feeling of pain, one does not sorrow, grieve, or lament, beat one's breast or become distraught, then one's resistance obsession doesn't get obsessed. If, when touched by a feeling of neither pleasure nor pain, one discerns, as it actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, & escape from that feeling, then one's ignorance-obsession doesn't get obsessed. That a person — through abandoning passion-obsession with regard to a feeling of pleasure, through abolishing resistance-obsession with regard to a feeling of pain, through uprooting ignorance-obsession with regard to a feeling of neither pleasure nor pain, through abandoning ignorance and giving rise to clear knowing — would put an end to suffering & stress in the here & now: such a thing is possible.



Này các Tỷ-kheo do duyên mắt và do duyên các sắc khởi lên nhăn thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ, mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ, mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.

 

"Dependent on the ear & sounds there arises consciousness at the ear. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition, there arises what is felt either as pleasure, pain, or neither pleasure nor pain. If, when touched by a feeling of pleasure, one does not relish it, welcome it, or remain fastened to it, then one's passion-obsession doesn't get obsessed. If, when touched by a feeling of pain, one does not sorrow, grieve, or lament, beat one's breast or become distraught, then one's resistance obsession doesn't get obsessed. If, when touched by a feeling of neither pleasure nor pain, one discerns, as it actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, & escape from that feeling, then one's ignorance-obsession doesn't get obsessed. That a person — through abandoning passion-obsession with regard to a feeling of pleasure, through abolishing resistance-obsession with regard to a feeling of pain, through uprooting ignorance-obsession with regard to a feeling of neither pleasure nor pain, through abandoning ignorance and giving rise to clear knowing — would put an end to suffering & stress in the here & now: such a thing is possible.



Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên cảm xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.

 

"Dependent on the nose & aromas there arises consciousness at the nose. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition, there arises what is felt either as pleasure, pain, or neither pleasure nor pain. If, when touched by a feeling of pleasure, one does not relish it, welcome it, or remain fastened to it, then one's passion-obsession doesn't get obsessed. If, when touched by a feeling of pain, one does not sorrow, grieve, or lament, beat one's breast or become distraught, then one's resistance obsession doesn't get obsessed. If, when touched by a feeling of neither pleasure nor pain, one discerns, as it actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, & escape from that feeling, then one's ignorance-obsession doesn't get obsessed. That a person — through abandoning passion-obsession with regard to a feeling of pleasure, through abolishing resistance-obsession with regard to a feeling of pain, through uprooting ignorance-obsession with regard to a feeling of neither pleasure nor pain, through abandoning ignorance and giving rise to clear knowing — would put an end to suffering & stress in the here & now: such a thing is possible.



Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên cảm xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.

 

"Dependent on the tongue & flavors there arises consciousness at the tongue. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition, there arises what is felt either as pleasure, pain, or neither pleasure nor pain. If, when touched by a feeling of pleasure, one does not relish it, welcome it, or remain fastened to it, then one's passion-obsession doesn't get obsessed. If, when touched by a feeling of pain, one does not sorrow, grieve, or lament, beat one's breast or become distraught, then one's resistance obsession doesn't get obsessed. If, when touched by a feeling of neither pleasure nor pain, one discerns, as it actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, & escape from that feeling, then one's ignorance-obsession doesn't get obsessed. That a person — through abandoning passion-obsession with regard to a feeling of pleasure, through abolishing resistance-obsession with regard to a feeling of pain, through uprooting ignorance-obsession with regard to a feeling of neither pleasure nor pain, through abandoning ignorance and giving rise to clear knowing — would put an end to suffering & stress in the here & now: such a thing is possible.



Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị khởi lên thiệt thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên cảm xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.

 

"Dependent on the body & tactile sensations there arises consciousness at the body. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition, there arises what is felt either as pleasure, pain, or neither pleasure nor pain. If, when touched by a feeling of pleasure, one does not relish it, welcome it, or remain fastened to it, then one's passion-obsession doesn't get obsessed. If, when touched by a feeling of pain, one does not sorrow, grieve, or lament, beat one's breast or become distraught, then one's resistance obsession doesn't get obsessed. If, when touched by a feeling of neither pleasure nor pain, one discerns, as it actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, & escape from that feeling, then one's ignorance-obsession doesn't get obsessed. That a person — through abandoning passion-obsession with regard to a feeling of pleasure, through abolishing resistance-obsession with regard to a feeling of pain, through uprooting ignorance-obsession with regard to a feeling of neither pleasure nor pain, through abandoning ignorance and giving rise to clear knowing — would put an end to suffering & stress in the here & now: such a thing is possible.



Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên cảm xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.

 

"Dependent on the intellect & ideas there arises consciousness at the intellect. The meeting of the three is contact. With contact as a requisite condition, there arises what is felt either as pleasure, pain, or neither pleasure nor pain. If, when touched by a feeling of pleasure, one does not relish it, welcome it, or remain fastened to it, then one's passion-obsession doesn't get obsessed. If, when touched by a feeling of pain, one does not sorrow, grieve, or lament, beat one's breast or become distraught, then one's resistance obsession doesn't get obsessed. If, when touched by a feeling of neither pleasure nor pain, one discerns, as it actually is present, the origination, passing away, allure, drawback, & escape from that feeling, then one's ignorance-obsession doesn't get obsessed. That a person — through abandoning passion-obsession with regard to a feeling of pleasure, through abolishing resistance-obsession with regard to a feeling of pain, through uprooting ignorance-obsession with regard to a feeling of neither pleasure nor pain, through abandoning ignorance and giving rise to clear knowing — would put an end to suffering & stress in the here & now: such a thing is possible.



Này các Tỷ-kheo, do duyên ư và do duyên các pháp khởi lên ư thức. Sự gặp gỡ của ba (pháp này) là xúc. Do duyên cảm xúc khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ. Vị ấy cảm xúc lạc thọ mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc khổ thọ mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng. Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.

 

"Seeing thus, the well-instructed disciple of the noble ones grows disenchanted with the eye, disenchanted with forms, disenchanted with consciousness at the eye, disenchanted with contact at the eye, disenchanted with feeling, disenchanted with craving.



Này các Tỷ-kheo, do thấy vậy, vị Đa văn Thánh đệ tử yếm ly mắt, yếm ly các sắc, yếm ly nhăn thức; yếm ly nhăn xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái.

 

"He grows disenchanted with the ear, disenchanted with sounds, disenchanted with consciousness at the eye, disenchanted with contact at the ear, disenchanted with feeling, disenchanted with craving.



Vị ấy yếm ly tai, yếm ly các tiếng, yếm ly nhĩ thức; yếm ly nhĩ xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái.

 

"He grows disenchanted with the nose, disenchanted with aroma, disenchanted with consciousness at the eye, disenchanted with contact at the nose, disenchanted with feeling, disenchanted with craving.



Vị ấy yếm ly mũi, yếm ly các hương, yếm ly tỷ thức; yếm ly tỷ xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái.

 

"He grows disenchanted with the tongue, disenchanted with flavor, disenchanted with consciousness at the eye, disenchanted with contact at the tongue, disenchanted with feeling, disenchanted with craving.



Vị ấy yếm ly lưỡi, yếm ly các vị, yếm ly thiệt thức; yếm ly thiệt xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái.

 

"He grows disenchanted with the body, disenchanted with tactile sensation, disenchanted with consciousness at the eye, disenchanted with contact at the body, disenchanted with feeling, disenchanted with craving.



Vị ấy yếm ly thân, yếm ly các xúc, yếm ly thân thức; yếm ly thân xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái.

 

"He grows disenchanted with the intellect, disenchanted with ideas, disenchanted with consciousness at the intellect, disenchanted with contact at the intellect, disenchanted with feeling, disenchanted with craving. Disenchanted, he becomes dispassionate. Through dispassion, he is fully released. With full release, there is the knowledge, 'Fully released.' He discerns that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.'"



Vị ấy yếm ly ư, yếm ly các pháp; yếm ly ư thức, yếm ly ư xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: "Ta đă được giải thoát". Và vị ấy tuệ tri : "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, các việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này nữa".

 

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted at his words. And while this explanation was being given, the hearts of 60 monks, through no clinging,1 were fully released from fermentation/effluents.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của sáu mươi Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ.

 

Notes

1. I.e., clinging not being sustained.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |